Tháng: Tháng 6 2015

  • NGƯỜI GIỮ LỜI HỨA NĂM XƯA

    NGƯỜI GIỮ LỜI HỨA NĂM XƯA

    Tôi gặp cô Vũ Thúy Nga trong một buổi sớm đầy nắng, mà đầy nắng có lẽ bởi nụ cười trên khuôn mặt điềm đạm của cô. Vẻ giản dị, thân thiện của cô đã xóa tan đi những khoảng cách xa lạ của hai người lần đầu gặp gỡ. Những câu chuyện cứ nối dài tưởng như không bao giờ dứt.

    Sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức yêu nước, cô đã sống những ngày tuổi thơ thật bình dị. Nhà có bảy anh chị em, mỗi người đã có những con đường đi riêng nhưng mỗi khi nhắc đến cậu em hy sinh trên chiến trường năm 1972 cô không khỏi xúc động. Cậu em chỉ nhập ngũ một năm rồi hy sinh, bỏ lại bao ước mơ còn dang dở, và cô tình nguyện là người viết tiếp nó. Cô sinh viên đại học Bách Khoa khóa I ngày ấy sau khi tốt nghiệp đã xuất sắc được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy rồi theo lệnh điều động giữ chức Trưởng phòng kĩ thuật nhà máy dệt 8/3 và nhà máy dệt chăn Bình Lợi. Cô đã từng được nhận huân chương chống Mỹ cứu nước hạng II sau những nỗ lực lao động sản xuất của mình nơi hậu phương. Đến khi nghỉ hưu cô vẫn không ngừng nghỉ hoạt động để cống hiến cho đời. Động lực ấy là gì? Đó chỉ là vì một lời hứa.

    “Cháu đã được vinh dự sống trong chế độ mới, được Bác dạy dỗ trở nên người. Cháu biết Bác từ ngày đầu cách mạng với trí óc non nớt của cháu đã kính yêu Bác vô bờ. Bài học đầu tiên khi cháu cắp sách đến trường là bức thư của Bác gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ lúc đó, cháu ước mơ được gặp Bác, ước mơ đó hơn mười năm sau cháu đã thực hiện được. Ngày 8/3/1965, lần thứ tư được gặp Bác khi Bác tới dự lễ khánh thành nhà máy dệt 8 tháng 3. Thật không ngờ đó là lần cuối cùng, những giờ phút này chúng cháu không dám nhìn lên ảnh Bác. Trước đôi mắt trong sáng kia đã nhắm lại rồi, cầm lòng làm sao được, Bác ơi!. Đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời Bác vẫn còn ân hận vì chưa hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước, Bác chưa được vào thăm đồng bào miền Nam, nguyện vọng tha thiết của Bác chưa được thực hiện Bác đã qua đời. Hứa với Bác sẽ cố gắng nhiều hơn, cháu sẽ phấn đầu một ngày không xa sẽ được đứng chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, cùng thế hệ chúng cháu dưới sự dìu dắt của Đảng tiếp tục sự nghiệp của Bác”– (Đêm ngày 5/9/1969- ba ngày mất của Bác). Cô Nga đã lật giở từng trang hồi ức trong cuốn sổ ngả màu vàng của thời gian, run run đọc lại mà hai khóe mắt rưng rưng. Có lẽ những cảm xúc nguyên vẹn của ngày cô lập nên lời hứa cuộc đời sẽ mãi không bao giờ phai. Có biết bao người đã hứa, đã thề nhưng bao người làm được? Nhưng dù số đó có nhiều, có thế nào đi chăng nữa thì vẫn còn đâu đây một con người sống hết mình vì lời thề xương máu. Người Đảng viên 40 năm tuổi Đảng đã không hề làm điều gì hổ thẹn khi đứng vào hàng ngũ vinh dự của Đảng.

    Những lần được gặp Bác là kí ức vui vẻ nhất trong đời cô. Năm 1956, khi Bác thăm trường đại học Bách Khoa, cô sinh viên Thúy Nga đã được nhìn thấy Bác tận mắt và thuộc lòng lời Bác dạy: “Nếu các cháu học hành chăm chỉ, tốt thì Bác Hồ muôn năm còn không thì Bác Hồ muốn nằm”. Lời nói giản dị ấy như thấm vào lòng người, thúc đẩy thế hệ sinh viên năm ấy tiến bước thành công trong tương lai. Hai lần sau, cô cũng được nhìn Bác khi trong ban hợp ca hát cho Bác nghe. Thật tuyệt vời khi trong đời người lại có những khi gần với Người như vậy. Đến ngày 8/3/1965, một lần nữa tại lễ thành lập nhà máy dệt 8 tháng 3, cô Nga lại có dịp gặp Bác. Khi ấy, cô đang mang thai đứa con gái đầu lòng, bụng khá lớn. Mọi người phân công cô ở lại, giữ an toàn. Thế nhưng khi nghe Bác đến khu tập thể, trái tim trong lồng ngực như thổn thức, cô vội chạy ra vấp phải hòn đá chảy tứa máu. Nhưng không có cảm giác đau, cô chạy nhanh đến hơn, chỉ cách Bác một chút nữa thôi, nhìn thấy tận những đốm đồi mồi trên da Bác. Nhưng… cô vẫn chẳng dám tiến gần hơn bởi mình chỉ là một kĩ sư bình thường. Giờ đây khi nghĩ lại, hối tiếc vẫn còn, giá lúc đó lai gần chắc Bác cũng sẽ hỏi thăm cô… Đến khi đầu đã bạc, nghĩ lại vẫn còn hối tiếc chỉ biết bù đắp bằng những việc làm thiết thực nhất. Và tôi nghĩ những việc cô làm hôm nay đã tiến gần bên Bác, bởi nó là những gì Bác mong ngày đêm.

    Tôi có hỏi: “Cô có nhiều thành tích và giấy khen không ạ?”– Cô trả lời – một câu trả lời khiến tôi hoàn toàn bất ngờ: “Nhiều lắm mà chẳng nhớ hết được”. Ai đó rất tự hào về thành tích nhưng còn cô, có lẽ điều tự hào là những việc làm chân thực trong cuộc sống. Khi nhắc đến người nghèo, ánh mắt cô vừa lấp lánh hy vọng vừa đầy những tình cảm chân thành. Cô kể niềm vui lớn nhất của cô là giúp được một người có cuộc sống tốt đẹp hơn. Con cái có khi la: “Mẹ là cái ngân hàng ấy hả?”. Cô cũng rút kinh nghiệm chỉ cho vay dưới 20 triệu nhưng khi gặp người nghèo khó họ đến nhờ, có lại lấy ra hết, không giúp không được. Năm ngoái, có một cô gần nhà nghèo lắm, đi vay ở ngoài 6 triệu mà trả lời đến 85 nghìn một ngày. Vay thế, trả thế thì còn lời lãi làm sao với cái xe bán bột chiên. Thấy thương quá, cô cho người ấy vay rồi bảo cứ góp dần không lấy lãi. Mừng là sau 2 tháng cô bán bột chiên đã trả hết nợ, sau vay thêm 5 triệu nữa mua xe cho có cái đi lại, cũng trả hết. Đó thực sự là niềm vui không gì đánh đổi được, hiện cô bột chiên đã có thu nhập ổn định. Nhiều khi giúp đỡ vô điều kiện quá, có người không trả lại nhưng cô vẫn nghĩ mình làm đúng bởi đã không bỏ rơi một người nghèo nào lúc khốn khó. Bây giờ hễ ai có khó khăn đều đến tìm cô để nhờ sự tư vấn, giúp đỡ của cô, họ xem cô như một người thân mới nơi đất khách quê người này. Tại khu phố của cô, người nghèo luôn nhận được sự trợ giúp kịp thời nhất. Quỹ người nghèo sẽ giúp việc ma chay khó khăn, bảo hiểm xã hôi, vay vốn phát triển kinh tế,… Chỉ cần tạm trú lâu dài tại địa bàn là các hộ nghèo cũng đã được giải quyết vay vốn. Những việc làm thiết thực này giúp cho những người khó khăn có cơ hội tốt hơn vươn lên trong cuộc sống. Hàng năm, cô đều tích cực vận động các manh thường quân đóng góp cho quỹ học bổng Nguyễn Thị Minh Khai từ 25 – 30 suất. Những học bổng này đều được trao tận tay những hoàn cảnh khó khăn vượt khó học giỏi. Mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh nơi khu phố cô đều nắm rõ và hiểu biết tường tận. Không chỉ nói mà cô đã làm, đó là điều đi vào lòng dân, thế nên bằng khen của Ban dân vận Trung ương dành cho cô: “Điển hình dân vận khéo” đã không hề đặt nhầm chỗ.

    Thời gian đi của cô nhiều hơn thời gian ở nhà – đi để hiểu địa bàn, để biết mình vẫn cần cho đời. Cô là một trong số những thành viên tích cực của ban cán sự xã hội. Công việc mà ít người muốn nhận, bởi đối tượng tiếp xúc là thành phần tệ nạn xã hội, người nghiện ma túy. Tuy nhiên, cô Nga vẫn tìm thấy những niềm vui nho nhỏ trong công việc lặng thầm này. Với cô, những người nghiện vẫn hiền lành, chịu khó làm ăn nếu ta cho họ cơ hội làm lại từ đầu. Nhiều thanh niên trong khu phố khi cai nghiện thành công đã có công việc ổn định như thợ chụp ảnh, trật tự đô thị phường, kinh doanh… Dù có người nghiện nhiễm HIV hay đang ở giai đoạn cuối AIDS cô vẫn sẵn sàng đến chăm sóc, động viên họ. Ngoài ra, cô còn vận động thành lập một điểm chữ thập đỏ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, phân phát thuốc miễn phí. Tấm lòng của cô thực sự là bài học sống động nhất giữa dòng đời ngược xuôi còn bao nhiêu toan tính.

    “Hãy làm – đừng nói”– Đó là điều mà tôi học được nơi cô rõ nhất. Cô bảo: “Bây giờ nhiều cuộc thi viết, thi kể quá nhiều. Nhưng kể thì nhiều người đã biết, đã nghe. Viết thì có thực chất không? Làm là cách hay nhất để mọi người nhìn thấy Bác trong hành động của mình. Hãy hoàn thành các nghĩa vụ đóng góp cho khu phố, chăm lo giúp đỡ người nghèo, gia đình con cái trong ngoài phải hòa thuận. Còn giấy, để cho các em học sinh nghèo có cái học tập. Có làm, có cho họ thấy kết quả họ mới tin mình. Càng nghèo, càng trình độ thấp càng phải khéo léo, càng phải bình đẳng.”

  • CON ÉN NHỎ GIEO NIỀM TIN CHO ĐỜI

    CON ÉN NHỎ GIEO NIỀM TIN CHO ĐỜI

    Buổi chiều hè oi bức, cái nóng làm người ta luôn dễ cáu gắt khó chịu.Thế nhưng tiếp đón chúng tôi, cô Kim Ril vẫn tươi cười hiền hậu, nhiệt tình. Được biết, cô đang là một công dân tốt, một Đảng viên gương mẫu của khu phố 6, phường Cầu Kho, quận 1. Người dân trong khu phố thường thấy bóng dáng cô lặng lẽ đêm đêm đi tắt từng cái đèn đường còn sót, hay tận tình giúp đỡ bà con lối xóm. “Ai kêu cô đó, có cô đây”. Thế nhưng mấy ai biết được gian khổ và sự nỗ lực to lớn đằng sau ấy! Vượt qua khó khăn bản thân, cô không những làm tốt nhiệm vụ được giao mà còn nỗ lực làm nhiều hơn thế.

    Cô – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, cũng đã luống tuổi vẫn miệt mài với công tác dân vận hằng ngày. Ở cái tuổi của cô, người ta an nhàn bên con cháu, nghỉ ngơi sau cả đời cố gắng, còn cô vẫn hăng say cống hiến từng ngày.

    Được biết, trước khi về khu phố 6 này, cô đã có 17 năm tuổi Đảng tại phòng Tài chính Kế hoạch tỉnh Tây Ninh. Năm 2003, vì điều kiện học hành của các con, cả gia đình chuyển về đây. Khi ấy, cô là chi ủy viên Chi bộ khu phố 6 và khởi đầu bằng việc buôn bán nhỏ tại gia. Từ bánh đến nước giải khát, cô đều bán để kiếm tiền nuôi các con ăn học. Người phụ nữ ấy cố gắng từng ngày, cho đến hôm nay các con đều thành đạt, là Đảng viên, là giảng viên… Cô cũng giống như bao người mẹ khác, cả đời tần tảo vì con, vì gia đình. Thế nhưng, cô cũng có điểm khác mà không nhiều người phụ nữ làm được. Đó là song song với nữ công gia chánh, cô còn là một Đảng viên gương mẫu.

    Công việc của một Đảng viên tưởng chừng đơn giản mà không hề đơn giản chút nào: dân vận. Những năm trước, khu phố 6 nói riêng và phường Cầu Kho nói chung là khu vực rất mất an ninh trật tự. Đặc biệt nơi đây từng được coi là “thiên đường” của dân buôn bán ma túy. Có khu phố gồm 34 hộ thì đã hết 25 hộ buôn bán ma túy. Khu phố 6 cũng là nơi tập trung của nhiều người Chăm, các gia đình có người hồi gia hoàn lương, nhiều trẻ em mồ côi do ba mẹ buôn ma túy đi tù… Tình hình phức tạp vậy, nhưng cô cùng các thành viên Chi bộ đã không ngừng giúp đỡ, nghĩ đủ mọi kế hoạch, chương trình nhằm ổn định khu phố. Đối với các gia đình có người hoàn lương, cô nhiệt tình tới tận nhà bầu bạn, tâm sự, khuyên bảo sửa đổi. Đối với các em nhỏ, cô cùng Chi bộ khu phố đã lập ra Câu lạc bộ Kim Đồng để tạo môi trường sinh hoạt cho các em. Đối với các hộ nghèo, cô cũng tận tâm giúp đỡ từng bữa ăn, cái mặc, thân tình như người một nhà. Đến nay, tình hình an ninh trật tự tại khu phố vô cùng ổn định. Các gia đình khó khăn giảm, họ dần biết cách làm ăn buôn bán để sống. Một phần lớn người hồi gia cũng cải tà quy chánh, làm lại từ đầu. Các em thiếu nhi thì được học văn hóa, học kĩ năng sống, học về pháp luật. Giờ đây, các e không chỉ ngoan giỏi, mà còn góp phần trong các cuộc vây bắt đối tượng buôn bán ma túy. Có thể nói, tình hình khu phố ngày càng được cải thiện, tốt lên. Công sức cô không hề nhỏ, nhưng cô luôn miệng bảo rằng: Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân, cô cùng với các thành viên trong Chi bộ luôn sát cánh, hoạt động cùng nhau, chứ một mình cô cũng không làm được gì. Cô luôn khiêm tốn như vậy, làm nhiều việc nhưng cứ cho là nhỏ, bởi đó là đức tính khiêm tốn của một người Đảng viên. Là Đảng viên, là mẹ, là vợ hòa chung trách nhiệm trên vai cô. Nhưng cô chẳng hề than vãn nặng nhọc mà cứ cần cù hoàn thành từng nhiệm vụ một.

    Mười năm xây dựng Đảng từ khi chuyển về khu phố 6 là mười năm nỗ lực cố gắng của cô. Thế nhưng cuộc đời cũng lắm chữ ngờ, cũng lắm gian truân. Năm 2013, cô phát hiện mình bị ung thư ở giai đoạn 2. Suy sụp, lo sợ, buồn rầu, đau đớn là tất cả những cảm xúc của cô khi ấy. Kể về hoàn cảnh bệnh tật của mình, cô không kìm được nước mắt. Vừa hồi tưởng, từng giọt nước mắt vừa rơi, chúng tôi hiểu nỗi sợ hãi, hoang mang mà cô từng trải qua. Nhưng người phụ nữa Việt Nam như cô cũng kiên cường lắm. Cô nói:Mình cũng suy sụp dữ lắm, nhưng rồi nghĩ đến mọi người, nghĩ đến gia đình, mình không cho phép bản thân bỏ cuộc. Với lại mình cũng còn nhiều việc chưa làm lắm, mình vẫn chưa sẵn sàng buông xuôi. Thế là cùng với gia đình bên cạnh động viên, cô kiên trì chữa trị từng ngày. Cứ 21 ngày, cô vào bệnh viện hóa trị một lần. Miệt mài… nỗ lực… kiên trì… mạnh mẽ… Cứ mỗi lần hóa trị, cơ thể cô lại trải qua một lần đau đớn cùng cực, tóc rụng, sức khỏe suy yếu nhiều. Trải qua 6 lần như vậy, căn bệnh của cô dần có biến chuyển tốt, cô khỏe dần lên. Đến tháng 3/2014, căn bệnh ung thư đã được chữa tận gốc. Quá trình đối mặt, chữa trị bệnh tật ấy, cô cũng mang ơn gia đình, bà con lối xóm, các anh cô trong Chi bộ nhiều lắm. Mọi người luôn bên cạnh an ủi, động viên, khuyến khích tinh thần cô rất nhiều. Với cô: Lúc không sao, mình cứ thấy những lời động viên đó là bình thường, đến khi rơi vào hoàn cảnh, mới thấy quý những lời động viên. Đang lúc tăm tối nhất, bỗng nhiên nghe được câu khích lệ, thấy mình mạnh mẽ lên, có niềm tin hơn hẳn”. Cũng nhờ cô tận tâm tận tình với mọi người trước đây, được bà con thương yêu nên tới lúc khó khăn, ai ai cũng thương lấy cô. Hằng ngày sớm tối thăm nom, khích lệ từng chút. Cùng với sự quan tâm của gia đình, và nỗ lực chính bản thân, cô từng bước đẩy lùi bệnh tật, từng bước vượt cạn. Cô dùng chính niềm tin mình đã gieo vào lòng bà con để vượt qua bão bệnh. Niềm tin có vai trò lớn lắm. Niềm tin cho cô sức mạnh, cho cô mạnh mẽ vượt qua khó khăn. Thanh niên như chúng tôi ngày nay rất khâm phục sức mạnh tinh thần của cô khi ấy. Chính đây là tấm gương điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, cho người Đảng viên gương mẫu. Cô cho chúng tôi thấy rõ, bệnh tật không là gì nếu như ý chí của bản thân đủ lớn mạnh.

    Điều đáng khâm phục, đó là trong lúc đối mặt với bệnh tật, cô vẫn không hề lơ là công tác dân vận. Năm 2012, cô làm Phó Bí thư Chi bộ khu phố. Đến tháng 3/2013 cô phát hiện bệnh ung thư. Nhưng đến tháng 8 năm đó, do Bí thư hiện thời đã từ nhiệm, cô một thân cáng đáng công việc của cấp ủy. Mọi hoạt động của Chi bộ vẫn được duy trì đều đặn. Công tác dân vận vẫn được cô thực hiện không quản bệnh tật, mệt mỏi. Dù bệnh như vậy, nhưng cô vẫn quyết định không nhập viện chữa trị, mà vẫn ở nhà để hoàn thành nghĩa vụ của một người mẹ, một Bí thư. Cứ đến ngày hóa trị, cô lại vào bệnh viện; xong cô lại về với gia đình, với bà con, với những công việc không tên hằng ngày. Không những hoàn thành công việc như một người bình thường, mà cô còn làm gấp đôi. Đến khi cô khỏe hẳn, cũng là lúc Chi bộ được tặng danh hiệu Chi bộ trong sạch, vững mạnh. Với cô, những gì làm được, những khó khăn vượt qua, không thể thiếu những người thân luôn bên cạnh động viên cô. Một lần nữa, cô lại khẳng định: Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân”.

    Thời gian gần đây, sau khi khỏe hẳn, cô lại tiếp tục tham gia Hội nạn nhân chất độc da cam, để tiếp tục hoạt động tình nguyện. Có thể nói, ở cô, chúng tôi không nhận ra dấu hiệu của một người lớn tuổi, một người đã từng suy sụp vì bệnh tật; chúng tôi chỉ thấy niềm tin, sự nhiệt tình, nhân hậu, đảm đang. Làm một người mẹ đã khó, một người vợ hiền cũng không dễ, đảm đương thêm công việc ngoài xã hội lại càng khó khăn hơn. Nhưng với cô, nó không hề là gánh nặng, là “điều phải làm”; mà đó là niềm đang mê, ý thích và muốn làm gì đó cho xã hội”. Tất cả như hòa chung trong con người cô.

    Không chỉ làm, mà cô còn luôn suy nghĩ để làm tốt hơn.Những suy nghĩ về hộ nghèo, làm sao giúp họ thoát nghèo, làm sao giúp họ hoàn lương, làm sao các em được đến trường… luôn bủa vây cô. Cô tận tình năng nổ trong hoạt động, mà cũng tận tâm chu đáo trong suy nghĩ là vậy. Những suy nghĩ mà cô bộc bạch với chúng tôi, đó là những suy nghĩ của một người Đảng viên chân chính, đúng chất và mẫu mực. Cô mong muốn làm sao để dân tin vào Đảng, làm sao để Đảng là “một cái gì đó gần gũi với dân, giúp ích cho dân. Thế nên cô đã vận động các đồng chí trong Chi bộ cùng cô, làm những việc mà chúng tôi hay nghe khi học mà chẳng hiểu mấy “Đảng viên phải sâu sát thực tế, bám dân, hiểu dân”. Thực hiện điều đó, cô càng nỗ lực làm những công việc không tên: tắt đèn hằng đêm, tới từng nhà vận động, gặp từng người để đồng cảm sẻ chia. Nói về việc tắt đèn hằng đêm của mình, cô cho đó là việc làm nhỏ bé, mỗi đêm mỗi bóng đèn không dùng có thể hao bao nhiêu ngân sách của Nhà nước. Còn nói về việc chia sẻ nỗi khó khăn của bà con, cô nghĩ mình cũng từng rất khó khăn, cùng từng mất hết niềm tin, cũng từng rơi vào hoàn cảnh đó, nên cô hiểu tầm to lớn của sự quan tâm, động viên, dù ít hay nhiều. Lúc ấy cô cần cô thấu nên giờ đây, chắc người ta cũng cần như cô. Đó là những suy nghĩ hết sức bình dị mà thân tình, thế nhưng nó đầy trách nhiệm của một Đảng viên muốn lấy dân làm gốc như cô. Chính vì suy nghĩ ấy, cô cũng là người đề ra hoạt động Mỗi người Đảng viên phụ trách một gia đình nghèo trong Chi bộ mình. Hoạt động này ngày càng có hiệu quả tại khu phố, nó góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo của khu phố thấy rõ. Cô tâm sự, ắp tới đây, cô còn dự định phát động phong trào Đảng viên nuôi heo đất để quyên góp quỹ mua sách vở, tặng học bổng cho các em học sinh nghèo của khu phố. Qua tất cả những việc làm đó, cô dần dần xây dựng niềm tin trong nhân dân về cuộc sống, về Đảng. Quả thật, tiếp xúc với người Đảng viên này, chúng tôi mới cảm nhận hết về Đảng.

    Gặp cô, trò chuyện với cô, chúng tôi luôn ám ánh bởi 2 chữ “niềm tin”. Niềm tin cô gieo vào lòng dân, niềm tin dần gieo lại vào cô, và niềm tin cô vì dân phục vụ. Cũng chính chữ đó đã làm nên một người phụ nữ đáng nể như hôm nay. Cô Ril – người phụ nữ mẫu mực của thế kỷ 21: giỏi việc nước, đảm việc nhà. Học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cô trở thành tấm gương sáng của bà con trong khu phố: tận tụy, trách nhiệm, nhiệt tình! Với cô, những công việc không tên không hề dễ những cũng chằng dễ làm khó cô!

  • Sống là để cho đi…

    Sống là để cho đi…

    Chiến tranh đã qua đi rất lâu nhưng những gì còn sót lại của nó luôn khiến ta chạnh lòng, khắc khoải; nhắc nhớ về một thời đã qua, một tuổi thanh xuân đã ra đi cùng năm tháng trên những chiến trường ác liệt trong công cuộc giành độc lập cho Tổ quốc, cho non sông thu về một dãy… Những chiến sĩ ấy, đến bây giờ vẫn không tiếc nuối và vẫn vẹn nguyên những kí ức về thời hoa đỏ, mang lí tưởng bộ đội cụ Hồ từng ngày, từng ngày sẵn sàng góp sức cho địa phương.

    Gặp trung tá Huỳnh Văn Riều (chú Riều) vào một buổi sáng cuối tháng Tư mát mẻ, trong không khí cả nước chào mừng đại lễ, được nghe những câu chuyện thắm đẫm tinh thần cách mạng của chú về kỷ niệm nơi trận tuyến “mưa bom bão đạn” mà thế hệ “hậu bối” như tôi không khỏi thán phục. Chú học trường Sỹ quan Pháo binh khóa 1960 – 1963, phân khoa Cao xạ và tốt nghiệp năm 63 với chức danh thiếu úy. Sau đó chú giữ chức vụ Chính trị viên đại đội 4, Trung đoàn Pháo binh 228, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không 367, cơ động khắp miền Bắc để đánh máy bay xâm phạm bầu trời miền Bắc.

    Trong quá trình công tác của mình, chú đảm nhận rất nhiều vị trí: tổ chức cán bộ, tổ chức Đảng, pháo cao xạ… trong các binh trạm Đoàn 559 ở chiến trường Trường Sơn khói lửa, ở chiến trường miền Trung – Tây Nguyên, hành quân trong đêm, đối mặt với các trận sốt rét rừng nghiệt ngã, rồi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam không biết bao nhiêu lần. Chú Huỳnh Văn Riều kể về kỷ niệm thời chiến của mình bằng trái tim chân thành, mộc mạc của người con quê Củ Chi đất thép; khắc họa tình đồng chí, đồng đội rõ nét như những gì mới xảy ra hôm qua. Chú xem các mảng kí ức đó như một phần da thịt, một phần tất yếu cho cuộc sống của mình, hôm nay và cả mai sau.

    Ở binh đoàn, người bộ đội Huỳnh Văn Riều được hai lần gặp Bác Hồ, có lẽ đó là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong cuộc đời mà chú khắc ghi mãi không bao giờ quên. Nói đến đây nước mắt của chú chực trào, những lời nói tràn về từ miền ký ức xa xôi, sâu thẳm. Chú nhớ: “Lần đó Bác ghé thăm đoàn, Bác hỏi han tận tình về các chiến sĩ, sống và chiến đấu thế nào”. Chú Riều còn nhớ như in câu hỏi của Bác:“Ở đây có chú nào quê miền Nam không? Khi đất nước thống nhất, Nam Bắc một nhà, thì các chú lại quay về với gia đình. Cố gắng nhé, rồi nước nhà ta sẽ có ngày thống nhất, và chắc chắn thống nhất”. Lúc ấy trong binh đoàn chỉ có hai người quê ở Nam Bộ, và chú Riều là một trong hai người, nên khoảnh khắc ấy đối với chú cứ như ngày hôm qua. Mặc dù không được tiếp xúc nhiều với Bác Hồ, nhưng trong tâm khảm chú Riều luôn ghi tạc hình bóng của Bác, làm theo những lời dạy và phấn đấu không ngừng trong suốt những năm kháng chiến trường kỳ, xem đó là kim chỉ nam cho đến bây giờ – ngày hòa bình lặp lại.

    Chú nhớ: Có lần trong binh đoàn của chú, một người chiến sĩ tuổi đôi mươi, xa quê, xa gia đình nên buồn chán, có những suy nghĩ tiêu cực, không chịu làm nhiệm vụ để bị thoái ngũ cho về quê, để mặc cho mọi người chê trách. Thấy vậy, trong vai trò Chính trị viên của mình, chú can thiệp, an ủi, chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm của thanh niên thời chiến. Sáu tháng ròng sống chung, khuyên bảo, cảm hóa bằng tình đồng đội nơi tiền tuyến khắc nghiệt thì đồng chí cũng hồi tâm chuyển ý và có nhiều suy nghĩ tích cực, tham gia chiến đấu cùng đơn vị. Lúc đó chú đã nói với anh em làm công tác tổ chức chính trị: Các em vận động bên Đoàn, các em phải biết ở tuổi thanh niên, đừng nên đánh giá vội; vì có cú sốc tinh thần nên anh em mới có trạng thái như vậy. Chúng ta chỉ cần cảm hóa, giáo dục, chỉ cần có thời gian rèn luyện, phấn đấu sẽ trở thành quân nhân tốt. Không có con người nào mang tư tưởng tiêu cực vĩnh cửu mãi mãi, mà chỉ tạm thời một giai đoạn mà thôi. Qua cách nói này, chúng ta cảm nhận ngay rằng người bộ đội Huỳnh Văn Riều học được rất nhiều điều quý báu từ nơi Bác Hồ: sống luôn vị tha, sẵn sàng giúp đỡ người khác vững tin bước qua những gian đoạn khó khăn, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc tâm lí đồng đội, những người ngày đêm cầm súng nơi chuyến tuyến gian nan.

    Hòa bình lập lại, người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều chuyển ngành và đảm nhận vị trí trưởng phòng Tổ chức lao động ở Viện Thiết kế tổng hợp, thuộc Sở Xây dựng Sài Gòn. Sau đó, Sở Xây dựng cử chú đi học lớp quản lí kinh tế xây dựng ở miền Bắc trong vòng 7 tháng. Thời điểm sau chú đảm nhận một vai trò khác là phó phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở Xây dựng, rồi làm giám đốc công ty Khai thác cát , đá sỏi, vật liệu xây dựng.

    Vì tố chất người bộ đội cụ Hồ luôn đấu tranh, nói thật, không nịnh bợ, tiểu tiết nên đôi lúc cũng gặp một số khó khăn trong công việc, vì không phải “ai cũng như mình”, như lời chú nói cây ngay không sợ chết đứng”, dám đương đầu mọi khó khăn, không bị đồng tiền và chức danh chi phối. Thi thoảng, trong công việc, như chú đã chia sẻ, chú đã từ chối từ rất nhiều các cuộc giao tiếp trên bàn nhậu, về sớm để chăm lo cho vợ và con, giữ gìn mái ấm gia đình. Chú cũng có nhiều chia sẻ rất thẳng thắn trong vấn đề lấy của công làm của riêng, hành động này là một việc tối kỵ và tuyệt đối tránh xa. Đây cũng là một trong những đức tính của Bác Hồ mà chú học được và vận dụng vào cuộc sống: luôn kiên trung, liêm khiết, không tham lam, cậy quyền. Chú tâm sự, đức tính liêm khiết là một trong những đức tính quý giá của Bác Hồ mà chú luôn luôn khắc ghi và phải làm theo, có như vậy mới trở thành công dân tốt. Và từ chi tiết trên, chúng ta biết được rằng chú Riều đã học hỏi và vận dụng đức tính này vào đời sống thật khéo léo, tinh tế. Khi đi làm, chú là một người tham mưu tốt, trách nhiệm với công việc tuyệt đối. Khi về nhà, chú là một người chồng tốt, một người cha luôn tận tụy chăm sóc con.

    Thời gian sau, chú công tác tại Liên hiệp dệt Hồng Gấm (thuộc Sở Công nghiệp), giữ chức vụ Trưởng phòng tổ chức cán bộ. Trong quá trình công tác, chú được cử về làm phó giám đốc của một xí nghiệp dệt (một trong số trên 30 xí nghiệp ở Liên hiệp dệt), kiêm luôn chức vụ phó bí thư chi bộ để vựt dậy xí nghiệp trên bờ vực khó khăn (vì lúc này ban lãnh đạo xí nghiệp đều bị kỉ luật), tức chú đã đứng ra dàn xếp và góp phần đưa đường hướng để phát triển lại cho xí nghiệp nhưng chú không mong muốn nhận lại danh vọng hay tiền tài về những gì mình bỏ ra, thật đáng để chúng ta nể trọng, noi theo.

    Do chú Riều giữ nguyên công tác chính trị, mang trong mình sở trường của người bộ đội cụ Hồ nên rất được Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xem trọng và nhờ chú đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau, trong đó đáng chú ý là phụ trách ở tổ cán sự xã hội tình nguyện để quản lí đối tượng hồi gia tái hòa nhập cộng đồng (đa phần là những người nghiện ma túy, HIV/AIDS, bài bạc… nói chung là các tệ nạn xã hội). Vì trách nhiệm cộng đồng xã hội nên các công tác chú thực hiện đều trên tinh thần hết lòng, làm cho đến nơi, đến chốn,hễ đã nhận lời thì phải làm đến cùng dù công việc có khó khăn thế nào chăng nữa. Tuy tuổi đã cao nhưng sức khỏe còn tốt nên ngày nào cống hiến được cho địa phương thì chú vẫn cứ làm.

    Trong quá trình tiếp xúc và giúp đỡ những người hồi gia, tái hòa nhập cộng đồng, chú luôn tâm niệm rằng:Người ma túy chỉ là nạn nhân của xã hội, chứ không phải tù tội gì, đặc biệt mình cần có thái độ chia sẻ, thông cảm, phải cảm hóa bằng giáo dục, từ trái tim đến trái tim. Cá nhân phải có những nhận thức đúng đắn, xuất phát từ tấm lòng thì mới có thể kiên trì làm, cháu nào chịu chí thú làm ăn, quay về làm lại từ đầu thì sẽ giảm rất nhiều gánh nặng và áp lực cho gia đình, xã hội, an ninh địa bàn giữ vững tốt hơn, có như thế địa phương mới thật sự phát triển bền vững ở mọi khía cạnh, vì đa phần những người hồi gia là những người trẻ, những người ở độ tuổi cống hiến. Chú cũng đề xuất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc về quỹ Vì người nghèo, làm đúng theo quy trình xét duyệt vay vốn để những người hồi gia có điều kiện làm lại cuộc đời.

    Tuy nhiên vẫn có 1 số cá nhân xin vay 5 triệu từ năm 2010 nhưng đến nay mang trả mới có 200.000 nhưng thôi, chú cũng ráng thông cảm, cho cơ hội làm lại. Đó chỉ là một trong số ít trường hợp đáng tiếc xảy ra, còn lại phần đông đều thành công, có công ăn việc làm từ số vốn hỗ trợ đó. Tiêu biểu là anh Nguyễn Văn Hiệp, vay vốn để mua phụ tùng sửa xe máy, và anh Hà Huy Công đi học nghề lái xe (đang lái cho công ty liên doanh Đài Loan), và hiện nay hai anh này có thu nhập rất ổn định, giúp cho gia đình tương đối ổn định.

    Từ chi tiết này, chúng ta thấy rằng người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều có tấm lòng khoan dung và vị tha thật đáng trân trọng, đó cũng là một trong những đức tính tốt mà chú học được từ Bác Hồ. Chú Riều luôn nhắc đến Bác Hồ trong sự bồi hồi và kính phục. Chú tâm sự: Dù bây giờ hay mãi mãi về sau cũng vậy, chú sẽ luôn phấn đấu không ngừng để mãi xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội cụ Hồ”. Những năm tháng chiến tranh đã rèn luyện chú, biết lấy vất vả, đau thương để làm mầm hy vọng, phấn đấu vì ngày mai tươi sáng, non sông thu về một mối như lời Bác Hồ từng khẳng định.

    Trải qua nhiều cương vị khác nhau, nhưng chú rất khiêm tốn, phong thái giản dị toát lên cung cách của người từng trải, không chỉ trong thời chiến mà người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều còn mang chúng vào giữa đời thường và tận tụy đóng góp sức lực cho địa phương. Tuổi cao nhưng chí càng cao, chắc chắn ai đã một lần tiếp xúc với chú sẽ không khỏi thán phục vì những năm tháng oai hùng giữa chiến trường khắc nghiệt, nay vẫn còn đó nét phong độ không phai. Thật không quá nếu nói rằng chú là một tấm gương sáng giữa đời thường, giữa những bộn bề đua chen của cuộc sống, chú vẫn làm người ta tin rằng xã hội vẫn còn người tốt như chú.

    Mặc dù là một người lính trở về từ chiến trường, nhưng những tố chất bộ đội cụ Hồ vẫn được chú mang vào và vận dụng một cách linh hoạt, sắc sảo. Chú học được rất nhiều bài học quý báu từ Bác Hồ, luôn làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chú tâm sự: “Dù Bác đã đi xa, nhưng những gì Bác để lại không gì so sánh được, những tư tưởng, lối sống đó vẫn luôn soi sáng, không chỉ với chú mà cả toàn thể dân tộc Việt Nam”. Thật vậy, mỗi việc làm của chú dù lớn hay nhỏ, từ việc làm lãnh đạo ở xí nghiệp dệt, cho đến chức Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh phường chú đều học hỏi và áp dụng những bài học vô giá từ Bác Hồ: khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, luôn quan tâm, giúp đỡ người khác tận tình. Chính những suy nghĩ, hành động luôn giúp cho đời, giúp người của chú đã làm chúng ta cảm phục, và thấy rằng chú vận dụng những bài học đạo đức, lối sống của Bác Hồ vào đời sống thường nhật thật hay, thật giá trị.

    Hôm nay và mai sau nữa, chú vẫn không quên hình ảnh và giọng nói Bác Hồ lần đến thăm binh đoàn, không quên những ngày nếm mật nằm gai, chứng kiến những tang thương mất mát, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường Trường Sơn những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Tuy một đời “tung hoành” với nhiều cương vị khác nhau, trải nghiệm những cái mà chưa chắc ai cũng được trải qua như chú, nhưng chú rất khiêm tốn “như Bác Hồ vẫn dạy chúng tôi”. Những giọt nước mắt chú rơi theo từng câu chuyện, những dòng hồi tưởng chân thật đến mức người nghe như cảm nhận được mình đang xem một bộ phim tài liệu về những năm tháng oai hùng của đất nước. Quay về từ chiến trường với chất độc đioxin có lẽ là một điều tàn nhẫn với chú nhưng chú vẫn cứ xem nhẹ,vì chỉ lạc quan mới giúp con người có thêm nghị lực để sống và giúp người khác chứ. Chú luôn làm để giúp người khác nhưng không mong được hậu tạ vì chú luôn tâm niệm (và cũng là quan điểm sống của chú): Sống là để cho đi chứ không phải nhận lại đâu”.

  • HỌC BÁC – HỌC TỪ NHỮNG ĐIỀU CỤ THỂ, NHỎ NHẶT NHẤT

    HỌC BÁC – HỌC TỪ NHỮNG ĐIỀU CỤ THỂ, NHỎ NHẶT NHẤT

    Tôi sinh ra khi đất nước đã hòa bình, tôi cũng chưa bao giờ phải chịu thiếu thốn vật chất như những thế hệ đi trước. Tôi biết về Bác cũng mông lung qua những trang sách. Tôi cũng đã khóc khi xem những đoạn phim tư liệu quý giá trong ngày Bác mất. Nhưng với bản chất tò mò, chỉ tin vào những điều mắt thấy tai nghe tôi vẫn ước mình sẽ gặp được người sống bên Bác, phục vụ Bác để một lần nghe trực tiếp hình dung về Bác. Và điều tuyệt vời ấy đã đến bất ngờ trong cuộc gặp gỡ với chú Trần Quân Ngọc – hội viên hội Cựu Chiến binh phường Cầu Kho.

    “Sung sướng lắm!” – Đó là ba từ mà chú Ngọc không thể kìm nén lại cảm xúc khi nhớ về những ngày tháng được nhìn thấy, gặp Bác và thậm chí là phục vụ Bác. Những kí ức tuyệt vời ấy đã trở nên một động lực mạnh mẽ để chú Ngọc luôn luôn nhắc nhở bản thân và con cháu sống một đời chính trực, cống hiến, làm theo tấm gương của Bác.

    Ở An toàn khu (ATK) Việt Bắc, trong những ngày kháng chiến chống Pháp, cậu bé Ngọc đã nhiều lần được gặp một cụ già hiền từ phúc hậu, luôn vẫy tay yêu thương với thiếu nhi. Cậu bé đó nhớ như in những câu chuyện nho nhỏ về Bác. Một lần, có một em thiếu nhi được gặp Bác và nói: “Từ bé tới giờ cháu mới được gặp Bác, sung sướng quá!”. Bác đáp lại vui vẻ hài hước: “Từ bé tới giờ Bác cũng mới được gặp cháu, Bác cũng sung sướng quá!”. Rồi cụ già hiền hậu vui đùa với trẻ nhỏ. Khi ấy trí óc non nớt của cậu bé Ngọc chưa biết đến những điều lớn lao Bác dành cho dân tộc Việt Nam nhưng những tình cảm yêu mến Bác đã khắc sâu trong lòng. Mười tuổi, cậu bé Trần Quân Ngọc đã trở thành một liên lạc viên của kháng chiến, tuổi nhỏ thì góp phần vào việc nhỏ, chẳng ngại nguy hiểm. Sau gần hai năm công tác, cậu được cử đi học ở trường thiếu sinh quân rồi được gửi ra nước ngoài học chuyên ngành Hóa về phục vụ đất nước. Trong những năm tháng công tác, chú Ngọc đã may mắn có dịp được dịch tài liệu cho Bác một số lần. Thường trước khi dịch, chú Ngọc rất lo lắng, nhưng được Bác động viên bằng những lời nói và cử chỉ ân cần, thân thiết nên chú đã tự tin, thoải mái hơn và đã hoàn thành tốt công việc.

    Ở bên Bác, biết Bác là người tiết kiệm, không xa hoa lãng phí các đồng chí lãnh đạo khác cũng học hỏi theo Bác. Chú Ngọc cho tôi xem một tờ giấy cũ đã ngả màu vàng trong đó có lời dặn dò của đồng chí Đỗ Mười với người thư kí Trần Quân Ngọc. Mặt kia của tờ giấy là những trang in tư liệu, tận dụng mặt còn lại Thủ tướng Đỗ Mười lúc bấy giờ đã viết vào đó, giao việc cho chú Ngọc. Chú bảo: “Cháu thấy không, một Thủ tướng còn tiết kiệm thế này, học Bác từ điều nhỏ thế này thì mình cũng phải biết cố gắng làm theo”. Dù đời sống bây giờ đầy đủ hơn rất nhiều nhưng chú Ngọc luôn dặn dò con cháu phải biết quý những thứ mình đang có từ việc nhỏ nhất như tận dụng những trang giấy trắng còn thừa, vét sạch hạt cơm còn lại trong bát, may lại đường chỉ sứt của chiếc áo, ra khỏi phòng là phải tắt điện… bất cứ thứ gì còn dùng được, còn tốt thì không nên bỏ đi. Bao nhiêu người nghèo đói không có những thứ mà chúng ta đang lãng phí, những người lao động đã phải đổ rất nhiều mồ hôi công sức mới làm nên những sản phẩm này.

    Bài học đáng nhớ và bổ ích nhất trong các bài học về Bác mà chú lãnh hội có lẽ là sự tế nhị trong công tác giáo dục. Câu chuyện này chú được nghe bố kể chỉ một lần nhưng nhớ mãi: Một lần, Bác ghé thăm một đơn vị bộ đội. Bác đi một lượt thăm chỗ ăn, chỗ ngủ của chiến sĩ. Rồi bác vào thăm phòng dành cho ban chỉ huy. Thấy ở đầu giường của một cán bộ có treo ảnh một cô gái rất xinh, lồng vào trong khung kính. Bác hỏi: “Ảnh thím ấy đấy à?”. Đồng chí chỉ huy đơn vị ấp úng: “Dạ thưa Bác, đây là tấm ảnh cô văn công cháu cắt ở họa báo ra…” Bác nhẹ nhàng hỏi tiếp: “Thế thím ấy lên thăm chú, thấy ở đầu giường chú tấm ảnh đó, thì thím ấy nghĩ sao nhỉ?”. Sự dạy dỗ của bác chỉ nhẹ nhàng bằng câu hỏi thế mà thấm vào lòng người. Khi còn công tác với cương vị một người lãnh đạo hay giờ đây đã vui vầy cùng con chau trong tuổi già, chú Ngọc vẫn áp dụng bài học về cách giáo dục tế nhị này, những bài học đi cùng năm tháng…

    Trong gia đình, chú Ngọc cũng áp dụng lời dạy của Bác, việc gì có thể làm được thì không nề hà. Không thể lấy lý do là mình đã gánh vác những việc ở cơ quan, ngoài xã hội mà không giúp đỡ vợ con. Chú sẵn sàng xắn tay vào bếp, phụ rửa chén hay xách giỏ cùng vợ đi chợ… Bằng cách đó, chú thể hiện tình yêu và niềm hạnh phúc gia đình của mình. Điều này tôi cảm nhận bằng trái tim mình khi bắt gặp đôi mắt trìu mến mà cô chú dành cho nhau, khi nghe chú giới thiệu về bức tranh vẽ vợ treo khắp trong căn nhà. Khi người ta dành cho nhau những điều chân thành thì hạnh phúc chẳng ở nơi nào xa lạ.

    Một điều gần như đã in sâu vào tác phong của người lính cụ Hồ như chú đó là đúng giờ. Chú luôn nhớ bài học đúng giờ của Bác, tâm niệm mình tới trễ một phút thì cứ nhân lên với số người đợi chờ mình thì con số lớn bao nhiêu. Có làm việc đúng giờ thể hiện thái độ nghiêm túc với công việc và sự tôn trọng với người khác. Như một lời tâm tình, chú chỉ mong thanh niên học sinh sinh viên bây giờ cố gắng giữ tác phong này, đừng sử dụng giờ cao su. Học Bác đừng cho rằng phải học những điều lớn lao, chỉ cần hành động nhỏ nhưng thiết thực.

    Những năm tháng này chú dành nhiều thời giờ cho việc viết lách. Chú muốn ghi lại những tư liệu quý giá về Bác, để sưu tập chúng thành bài học cho thế hệ trẻ ngày nay. Đến nay, chú đã có gần 1000 trang in về Bác Hồ. Những tập sách quý được xuất bản như: Bác Hồ với bạn bè quốc tế, Bác Hồ với văn nghệ, Theo bước chân người, Thư riêng của bác Hồ,… Những điều chú ấp ủ bấy lâu nay dần dần đã được hiện thực hóa. Nơi con người bình dị này quả là có một sức mạnh tỏa sáng phi thường.

    Cả cuộc đời chú Ngọc, niềm tự hào đặc biệt có lẽ là việc học được Bác Hồ niềm hăng say, tự học để trau dồi kiến thức cho bản thân. Khi ở Nga, ngoài việc học chính là chuyên ngành hóa theo sự phân công của nhà nước, buổi tối chú Ngọc còn cắp sách đến trường đại học Mỹ thuật bằng đam mê riêng. Nhìn quanh ngôi nhà của chú tôi đặc biệt chú ý đến những bức tranh treo tường, cây đàn Piano ở góc phòng. Tất cả đều là niềm vui khi rãnh rỗi, khi đã về hưu an nhàn. Tôi hỏi: Nghệ sĩ thế này thì khi chú học hóa – một ngành đặc thù về tự nhiên thì chú có thấy nó bị bó buộc không?. Chú bảo: “Không, ngược lại, với chú thì học Hóa là cách để mình hoàn thiện bản thân. Đất nước đang cần ngành Hóa thì mình phải học tốt để phục vụ chứ”. Cách nghĩ tuyệt vời này đúng là tấm gương cho bản thân tôi khi chính mình chỉ gắng theo đuổi những thứ gọi là đam mê, chưa biết học cách đối diện với điểm yếu của mình.

    Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của công việc chú Ngọc còn học thêm về Luật, kinh tế, chính trị cao cấp… chưa bao giờ chú nghĩ mình nên dừng lại việc học. Khi về hưu chú giữ chức chủ tịch hội quốc tế ngữ Esperanto, luôn sẵn sàng dạy quốc tế ngữ cho các bạn trẻ ham học một cách miễn phí. Nói đến quốc tế ngữ, chú khẳng định một niềm tự hào và hy vọng sự phát triển của nó trong tương lai gần. Hiện chú vẫn tham gia công tác đối ngoại nhân dân, làm việc với công việc của một Ủy viên Ban Thường vụ Quỹ hòa bình và phát triển thành phố Hồ Chí Minh. Năm nào chú cũng nhận được Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đó là sự khích lệ to lớn để khi còn đi được, còn làm được là sẽ đi, sẽ làm vì nhân dân như Bác Hồ đã từng làm.

    Điều làm tôi vô cùng khâm phục là khi đã ngoài 40 tuổi chú mới bắt đầu học tiếng Anh và hiện nay chú có thể sử dụng nó phục vụ cho công tác. Noi gương Bác Hồ, chú Ngọc rất chăm học tiếng nước ngoài, coi đó là phương tiện để mở rộng tri thức, để vươn tới những chân trời tri thức mới. Hiện nay chú có thể dùng được các ngôn ngữ như tiếng Nga, tiếng Trung, quốc tế ngữ Esperanto. Chú sợ nhất không phải nghèo khó, không phải cực khổ mà sợ hư cái đầu, không còn cống hiến cho cuộc đời được nữa. Thăm nơi chú lao đông, tôi không khỏi trầm trồ trước hàng trăm bức tranh, hàng ngàn bức ký họa quý giá mà chú đã ngày đêm miệt mài làm việc. Chú đã cho xuất bản 20 đầu sách về nhiều đề tài. Đó là mồ hôi, là nước mắt của những đêm dài sáng tác, là niềm vui sống của con người quen với công việc, không để phí thời gian. Chú quý từng giây từng phút của hiện tại, bởi “thời gian của chú giờ còn ít lắm”.

    Trước khi chia tay, chú Ngọc còn lưu ý với tôi một bài học quan trọng nữa mà Bác Hồ thường nhắc nhở, đó là khi đã tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm thì phải chia sẻ với bạn bè, đồng chí, đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chú tâm sự: “Bây giờ tuổi đã cao, nhưng hàng tháng, trong các buổi sinh hoạt chi bộ, chú vẫn đều đặn báo cáo tri thức thời sự và một số chuyên đề mà chi bộ quan tâm. Việc làm này đã thành một nề nếp quen thuộc, được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt”.

    “Sẽ vẫn làm việc cho đến phút cuối cuộc đời” Người Đảng viên 56 năm tuổi Đảng này cả cuộc đời đã như con ong chăm chỉ góp cho đời những giọt mật quý, như con chim cất lên tiếng hát trong trẻo buổi bình minh, như dòng thơ góp cho đời những ý thật tươi. Nhìn lại bản thân, tôi thấy mình sao vẫn còn nhiều điểm yếu kém. Tự thấy hổ thẹn với bản thân khi tiếp xúc với chú và tự hứa ngày hôm nay sẽ học hành chăm chỉ, cảm ơn chú với bài học này.