Danh mục: Hoạt động

  • Sống là để cho đi…

    Sống là để cho đi…

    Chiến tranh đã qua đi rất lâu nhưng những gì còn sót lại của nó luôn khiến ta chạnh lòng, khắc khoải; nhắc nhớ về một thời đã qua, một tuổi thanh xuân đã ra đi cùng năm tháng trên những chiến trường ác liệt trong công cuộc giành độc lập cho Tổ quốc, cho non sông thu về một dãy… Những chiến sĩ ấy, đến bây giờ vẫn không tiếc nuối và vẫn vẹn nguyên những kí ức về thời hoa đỏ, mang lí tưởng bộ đội cụ Hồ từng ngày, từng ngày sẵn sàng góp sức cho địa phương.

    Gặp trung tá Huỳnh Văn Riều (chú Riều) vào một buổi sáng cuối tháng Tư mát mẻ, trong không khí cả nước chào mừng đại lễ, được nghe những câu chuyện thắm đẫm tinh thần cách mạng của chú về kỷ niệm nơi trận tuyến “mưa bom bão đạn” mà thế hệ “hậu bối” như tôi không khỏi thán phục. Chú học trường Sỹ quan Pháo binh khóa 1960 – 1963, phân khoa Cao xạ và tốt nghiệp năm 63 với chức danh thiếu úy. Sau đó chú giữ chức vụ Chính trị viên đại đội 4, Trung đoàn Pháo binh 228, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không 367, cơ động khắp miền Bắc để đánh máy bay xâm phạm bầu trời miền Bắc.

    Trong quá trình công tác của mình, chú đảm nhận rất nhiều vị trí: tổ chức cán bộ, tổ chức Đảng, pháo cao xạ… trong các binh trạm Đoàn 559 ở chiến trường Trường Sơn khói lửa, ở chiến trường miền Trung – Tây Nguyên, hành quân trong đêm, đối mặt với các trận sốt rét rừng nghiệt ngã, rồi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam không biết bao nhiêu lần. Chú Huỳnh Văn Riều kể về kỷ niệm thời chiến của mình bằng trái tim chân thành, mộc mạc của người con quê Củ Chi đất thép; khắc họa tình đồng chí, đồng đội rõ nét như những gì mới xảy ra hôm qua. Chú xem các mảng kí ức đó như một phần da thịt, một phần tất yếu cho cuộc sống của mình, hôm nay và cả mai sau.

    Ở binh đoàn, người bộ đội Huỳnh Văn Riều được hai lần gặp Bác Hồ, có lẽ đó là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong cuộc đời mà chú khắc ghi mãi không bao giờ quên. Nói đến đây nước mắt của chú chực trào, những lời nói tràn về từ miền ký ức xa xôi, sâu thẳm. Chú nhớ: “Lần đó Bác ghé thăm đoàn, Bác hỏi han tận tình về các chiến sĩ, sống và chiến đấu thế nào”. Chú Riều còn nhớ như in câu hỏi của Bác:“Ở đây có chú nào quê miền Nam không? Khi đất nước thống nhất, Nam Bắc một nhà, thì các chú lại quay về với gia đình. Cố gắng nhé, rồi nước nhà ta sẽ có ngày thống nhất, và chắc chắn thống nhất”. Lúc ấy trong binh đoàn chỉ có hai người quê ở Nam Bộ, và chú Riều là một trong hai người, nên khoảnh khắc ấy đối với chú cứ như ngày hôm qua. Mặc dù không được tiếp xúc nhiều với Bác Hồ, nhưng trong tâm khảm chú Riều luôn ghi tạc hình bóng của Bác, làm theo những lời dạy và phấn đấu không ngừng trong suốt những năm kháng chiến trường kỳ, xem đó là kim chỉ nam cho đến bây giờ – ngày hòa bình lặp lại.

    Chú nhớ: Có lần trong binh đoàn của chú, một người chiến sĩ tuổi đôi mươi, xa quê, xa gia đình nên buồn chán, có những suy nghĩ tiêu cực, không chịu làm nhiệm vụ để bị thoái ngũ cho về quê, để mặc cho mọi người chê trách. Thấy vậy, trong vai trò Chính trị viên của mình, chú can thiệp, an ủi, chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm của thanh niên thời chiến. Sáu tháng ròng sống chung, khuyên bảo, cảm hóa bằng tình đồng đội nơi tiền tuyến khắc nghiệt thì đồng chí cũng hồi tâm chuyển ý và có nhiều suy nghĩ tích cực, tham gia chiến đấu cùng đơn vị. Lúc đó chú đã nói với anh em làm công tác tổ chức chính trị: Các em vận động bên Đoàn, các em phải biết ở tuổi thanh niên, đừng nên đánh giá vội; vì có cú sốc tinh thần nên anh em mới có trạng thái như vậy. Chúng ta chỉ cần cảm hóa, giáo dục, chỉ cần có thời gian rèn luyện, phấn đấu sẽ trở thành quân nhân tốt. Không có con người nào mang tư tưởng tiêu cực vĩnh cửu mãi mãi, mà chỉ tạm thời một giai đoạn mà thôi. Qua cách nói này, chúng ta cảm nhận ngay rằng người bộ đội Huỳnh Văn Riều học được rất nhiều điều quý báu từ nơi Bác Hồ: sống luôn vị tha, sẵn sàng giúp đỡ người khác vững tin bước qua những gian đoạn khó khăn, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc tâm lí đồng đội, những người ngày đêm cầm súng nơi chuyến tuyến gian nan.

    Hòa bình lập lại, người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều chuyển ngành và đảm nhận vị trí trưởng phòng Tổ chức lao động ở Viện Thiết kế tổng hợp, thuộc Sở Xây dựng Sài Gòn. Sau đó, Sở Xây dựng cử chú đi học lớp quản lí kinh tế xây dựng ở miền Bắc trong vòng 7 tháng. Thời điểm sau chú đảm nhận một vai trò khác là phó phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở Xây dựng, rồi làm giám đốc công ty Khai thác cát , đá sỏi, vật liệu xây dựng.

    Vì tố chất người bộ đội cụ Hồ luôn đấu tranh, nói thật, không nịnh bợ, tiểu tiết nên đôi lúc cũng gặp một số khó khăn trong công việc, vì không phải “ai cũng như mình”, như lời chú nói cây ngay không sợ chết đứng”, dám đương đầu mọi khó khăn, không bị đồng tiền và chức danh chi phối. Thi thoảng, trong công việc, như chú đã chia sẻ, chú đã từ chối từ rất nhiều các cuộc giao tiếp trên bàn nhậu, về sớm để chăm lo cho vợ và con, giữ gìn mái ấm gia đình. Chú cũng có nhiều chia sẻ rất thẳng thắn trong vấn đề lấy của công làm của riêng, hành động này là một việc tối kỵ và tuyệt đối tránh xa. Đây cũng là một trong những đức tính của Bác Hồ mà chú học được và vận dụng vào cuộc sống: luôn kiên trung, liêm khiết, không tham lam, cậy quyền. Chú tâm sự, đức tính liêm khiết là một trong những đức tính quý giá của Bác Hồ mà chú luôn luôn khắc ghi và phải làm theo, có như vậy mới trở thành công dân tốt. Và từ chi tiết trên, chúng ta biết được rằng chú Riều đã học hỏi và vận dụng đức tính này vào đời sống thật khéo léo, tinh tế. Khi đi làm, chú là một người tham mưu tốt, trách nhiệm với công việc tuyệt đối. Khi về nhà, chú là một người chồng tốt, một người cha luôn tận tụy chăm sóc con.

    Thời gian sau, chú công tác tại Liên hiệp dệt Hồng Gấm (thuộc Sở Công nghiệp), giữ chức vụ Trưởng phòng tổ chức cán bộ. Trong quá trình công tác, chú được cử về làm phó giám đốc của một xí nghiệp dệt (một trong số trên 30 xí nghiệp ở Liên hiệp dệt), kiêm luôn chức vụ phó bí thư chi bộ để vựt dậy xí nghiệp trên bờ vực khó khăn (vì lúc này ban lãnh đạo xí nghiệp đều bị kỉ luật), tức chú đã đứng ra dàn xếp và góp phần đưa đường hướng để phát triển lại cho xí nghiệp nhưng chú không mong muốn nhận lại danh vọng hay tiền tài về những gì mình bỏ ra, thật đáng để chúng ta nể trọng, noi theo.

    Do chú Riều giữ nguyên công tác chính trị, mang trong mình sở trường của người bộ đội cụ Hồ nên rất được Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xem trọng và nhờ chú đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau, trong đó đáng chú ý là phụ trách ở tổ cán sự xã hội tình nguyện để quản lí đối tượng hồi gia tái hòa nhập cộng đồng (đa phần là những người nghiện ma túy, HIV/AIDS, bài bạc… nói chung là các tệ nạn xã hội). Vì trách nhiệm cộng đồng xã hội nên các công tác chú thực hiện đều trên tinh thần hết lòng, làm cho đến nơi, đến chốn,hễ đã nhận lời thì phải làm đến cùng dù công việc có khó khăn thế nào chăng nữa. Tuy tuổi đã cao nhưng sức khỏe còn tốt nên ngày nào cống hiến được cho địa phương thì chú vẫn cứ làm.

    Trong quá trình tiếp xúc và giúp đỡ những người hồi gia, tái hòa nhập cộng đồng, chú luôn tâm niệm rằng:Người ma túy chỉ là nạn nhân của xã hội, chứ không phải tù tội gì, đặc biệt mình cần có thái độ chia sẻ, thông cảm, phải cảm hóa bằng giáo dục, từ trái tim đến trái tim. Cá nhân phải có những nhận thức đúng đắn, xuất phát từ tấm lòng thì mới có thể kiên trì làm, cháu nào chịu chí thú làm ăn, quay về làm lại từ đầu thì sẽ giảm rất nhiều gánh nặng và áp lực cho gia đình, xã hội, an ninh địa bàn giữ vững tốt hơn, có như thế địa phương mới thật sự phát triển bền vững ở mọi khía cạnh, vì đa phần những người hồi gia là những người trẻ, những người ở độ tuổi cống hiến. Chú cũng đề xuất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc về quỹ Vì người nghèo, làm đúng theo quy trình xét duyệt vay vốn để những người hồi gia có điều kiện làm lại cuộc đời.

    Tuy nhiên vẫn có 1 số cá nhân xin vay 5 triệu từ năm 2010 nhưng đến nay mang trả mới có 200.000 nhưng thôi, chú cũng ráng thông cảm, cho cơ hội làm lại. Đó chỉ là một trong số ít trường hợp đáng tiếc xảy ra, còn lại phần đông đều thành công, có công ăn việc làm từ số vốn hỗ trợ đó. Tiêu biểu là anh Nguyễn Văn Hiệp, vay vốn để mua phụ tùng sửa xe máy, và anh Hà Huy Công đi học nghề lái xe (đang lái cho công ty liên doanh Đài Loan), và hiện nay hai anh này có thu nhập rất ổn định, giúp cho gia đình tương đối ổn định.

    Từ chi tiết này, chúng ta thấy rằng người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều có tấm lòng khoan dung và vị tha thật đáng trân trọng, đó cũng là một trong những đức tính tốt mà chú học được từ Bác Hồ. Chú Riều luôn nhắc đến Bác Hồ trong sự bồi hồi và kính phục. Chú tâm sự: Dù bây giờ hay mãi mãi về sau cũng vậy, chú sẽ luôn phấn đấu không ngừng để mãi xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội cụ Hồ”. Những năm tháng chiến tranh đã rèn luyện chú, biết lấy vất vả, đau thương để làm mầm hy vọng, phấn đấu vì ngày mai tươi sáng, non sông thu về một mối như lời Bác Hồ từng khẳng định.

    Trải qua nhiều cương vị khác nhau, nhưng chú rất khiêm tốn, phong thái giản dị toát lên cung cách của người từng trải, không chỉ trong thời chiến mà người bộ đội cụ Hồ Huỳnh Văn Riều còn mang chúng vào giữa đời thường và tận tụy đóng góp sức lực cho địa phương. Tuổi cao nhưng chí càng cao, chắc chắn ai đã một lần tiếp xúc với chú sẽ không khỏi thán phục vì những năm tháng oai hùng giữa chiến trường khắc nghiệt, nay vẫn còn đó nét phong độ không phai. Thật không quá nếu nói rằng chú là một tấm gương sáng giữa đời thường, giữa những bộn bề đua chen của cuộc sống, chú vẫn làm người ta tin rằng xã hội vẫn còn người tốt như chú.

    Mặc dù là một người lính trở về từ chiến trường, nhưng những tố chất bộ đội cụ Hồ vẫn được chú mang vào và vận dụng một cách linh hoạt, sắc sảo. Chú học được rất nhiều bài học quý báu từ Bác Hồ, luôn làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chú tâm sự: “Dù Bác đã đi xa, nhưng những gì Bác để lại không gì so sánh được, những tư tưởng, lối sống đó vẫn luôn soi sáng, không chỉ với chú mà cả toàn thể dân tộc Việt Nam”. Thật vậy, mỗi việc làm của chú dù lớn hay nhỏ, từ việc làm lãnh đạo ở xí nghiệp dệt, cho đến chức Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh phường chú đều học hỏi và áp dụng những bài học vô giá từ Bác Hồ: khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, luôn quan tâm, giúp đỡ người khác tận tình. Chính những suy nghĩ, hành động luôn giúp cho đời, giúp người của chú đã làm chúng ta cảm phục, và thấy rằng chú vận dụng những bài học đạo đức, lối sống của Bác Hồ vào đời sống thường nhật thật hay, thật giá trị.

    Hôm nay và mai sau nữa, chú vẫn không quên hình ảnh và giọng nói Bác Hồ lần đến thăm binh đoàn, không quên những ngày nếm mật nằm gai, chứng kiến những tang thương mất mát, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường Trường Sơn những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Tuy một đời “tung hoành” với nhiều cương vị khác nhau, trải nghiệm những cái mà chưa chắc ai cũng được trải qua như chú, nhưng chú rất khiêm tốn “như Bác Hồ vẫn dạy chúng tôi”. Những giọt nước mắt chú rơi theo từng câu chuyện, những dòng hồi tưởng chân thật đến mức người nghe như cảm nhận được mình đang xem một bộ phim tài liệu về những năm tháng oai hùng của đất nước. Quay về từ chiến trường với chất độc đioxin có lẽ là một điều tàn nhẫn với chú nhưng chú vẫn cứ xem nhẹ,vì chỉ lạc quan mới giúp con người có thêm nghị lực để sống và giúp người khác chứ. Chú luôn làm để giúp người khác nhưng không mong được hậu tạ vì chú luôn tâm niệm (và cũng là quan điểm sống của chú): Sống là để cho đi chứ không phải nhận lại đâu”.

  • HỌC BÁC – HỌC TỪ NHỮNG ĐIỀU CỤ THỂ, NHỎ NHẶT NHẤT

    HỌC BÁC – HỌC TỪ NHỮNG ĐIỀU CỤ THỂ, NHỎ NHẶT NHẤT

    Tôi sinh ra khi đất nước đã hòa bình, tôi cũng chưa bao giờ phải chịu thiếu thốn vật chất như những thế hệ đi trước. Tôi biết về Bác cũng mông lung qua những trang sách. Tôi cũng đã khóc khi xem những đoạn phim tư liệu quý giá trong ngày Bác mất. Nhưng với bản chất tò mò, chỉ tin vào những điều mắt thấy tai nghe tôi vẫn ước mình sẽ gặp được người sống bên Bác, phục vụ Bác để một lần nghe trực tiếp hình dung về Bác. Và điều tuyệt vời ấy đã đến bất ngờ trong cuộc gặp gỡ với chú Trần Quân Ngọc – hội viên hội Cựu Chiến binh phường Cầu Kho.

    “Sung sướng lắm!” – Đó là ba từ mà chú Ngọc không thể kìm nén lại cảm xúc khi nhớ về những ngày tháng được nhìn thấy, gặp Bác và thậm chí là phục vụ Bác. Những kí ức tuyệt vời ấy đã trở nên một động lực mạnh mẽ để chú Ngọc luôn luôn nhắc nhở bản thân và con cháu sống một đời chính trực, cống hiến, làm theo tấm gương của Bác.

    Ở An toàn khu (ATK) Việt Bắc, trong những ngày kháng chiến chống Pháp, cậu bé Ngọc đã nhiều lần được gặp một cụ già hiền từ phúc hậu, luôn vẫy tay yêu thương với thiếu nhi. Cậu bé đó nhớ như in những câu chuyện nho nhỏ về Bác. Một lần, có một em thiếu nhi được gặp Bác và nói: “Từ bé tới giờ cháu mới được gặp Bác, sung sướng quá!”. Bác đáp lại vui vẻ hài hước: “Từ bé tới giờ Bác cũng mới được gặp cháu, Bác cũng sung sướng quá!”. Rồi cụ già hiền hậu vui đùa với trẻ nhỏ. Khi ấy trí óc non nớt của cậu bé Ngọc chưa biết đến những điều lớn lao Bác dành cho dân tộc Việt Nam nhưng những tình cảm yêu mến Bác đã khắc sâu trong lòng. Mười tuổi, cậu bé Trần Quân Ngọc đã trở thành một liên lạc viên của kháng chiến, tuổi nhỏ thì góp phần vào việc nhỏ, chẳng ngại nguy hiểm. Sau gần hai năm công tác, cậu được cử đi học ở trường thiếu sinh quân rồi được gửi ra nước ngoài học chuyên ngành Hóa về phục vụ đất nước. Trong những năm tháng công tác, chú Ngọc đã may mắn có dịp được dịch tài liệu cho Bác một số lần. Thường trước khi dịch, chú Ngọc rất lo lắng, nhưng được Bác động viên bằng những lời nói và cử chỉ ân cần, thân thiết nên chú đã tự tin, thoải mái hơn và đã hoàn thành tốt công việc.

    Ở bên Bác, biết Bác là người tiết kiệm, không xa hoa lãng phí các đồng chí lãnh đạo khác cũng học hỏi theo Bác. Chú Ngọc cho tôi xem một tờ giấy cũ đã ngả màu vàng trong đó có lời dặn dò của đồng chí Đỗ Mười với người thư kí Trần Quân Ngọc. Mặt kia của tờ giấy là những trang in tư liệu, tận dụng mặt còn lại Thủ tướng Đỗ Mười lúc bấy giờ đã viết vào đó, giao việc cho chú Ngọc. Chú bảo: “Cháu thấy không, một Thủ tướng còn tiết kiệm thế này, học Bác từ điều nhỏ thế này thì mình cũng phải biết cố gắng làm theo”. Dù đời sống bây giờ đầy đủ hơn rất nhiều nhưng chú Ngọc luôn dặn dò con cháu phải biết quý những thứ mình đang có từ việc nhỏ nhất như tận dụng những trang giấy trắng còn thừa, vét sạch hạt cơm còn lại trong bát, may lại đường chỉ sứt của chiếc áo, ra khỏi phòng là phải tắt điện… bất cứ thứ gì còn dùng được, còn tốt thì không nên bỏ đi. Bao nhiêu người nghèo đói không có những thứ mà chúng ta đang lãng phí, những người lao động đã phải đổ rất nhiều mồ hôi công sức mới làm nên những sản phẩm này.

    Bài học đáng nhớ và bổ ích nhất trong các bài học về Bác mà chú lãnh hội có lẽ là sự tế nhị trong công tác giáo dục. Câu chuyện này chú được nghe bố kể chỉ một lần nhưng nhớ mãi: Một lần, Bác ghé thăm một đơn vị bộ đội. Bác đi một lượt thăm chỗ ăn, chỗ ngủ của chiến sĩ. Rồi bác vào thăm phòng dành cho ban chỉ huy. Thấy ở đầu giường của một cán bộ có treo ảnh một cô gái rất xinh, lồng vào trong khung kính. Bác hỏi: “Ảnh thím ấy đấy à?”. Đồng chí chỉ huy đơn vị ấp úng: “Dạ thưa Bác, đây là tấm ảnh cô văn công cháu cắt ở họa báo ra…” Bác nhẹ nhàng hỏi tiếp: “Thế thím ấy lên thăm chú, thấy ở đầu giường chú tấm ảnh đó, thì thím ấy nghĩ sao nhỉ?”. Sự dạy dỗ của bác chỉ nhẹ nhàng bằng câu hỏi thế mà thấm vào lòng người. Khi còn công tác với cương vị một người lãnh đạo hay giờ đây đã vui vầy cùng con chau trong tuổi già, chú Ngọc vẫn áp dụng bài học về cách giáo dục tế nhị này, những bài học đi cùng năm tháng…

    Trong gia đình, chú Ngọc cũng áp dụng lời dạy của Bác, việc gì có thể làm được thì không nề hà. Không thể lấy lý do là mình đã gánh vác những việc ở cơ quan, ngoài xã hội mà không giúp đỡ vợ con. Chú sẵn sàng xắn tay vào bếp, phụ rửa chén hay xách giỏ cùng vợ đi chợ… Bằng cách đó, chú thể hiện tình yêu và niềm hạnh phúc gia đình của mình. Điều này tôi cảm nhận bằng trái tim mình khi bắt gặp đôi mắt trìu mến mà cô chú dành cho nhau, khi nghe chú giới thiệu về bức tranh vẽ vợ treo khắp trong căn nhà. Khi người ta dành cho nhau những điều chân thành thì hạnh phúc chẳng ở nơi nào xa lạ.

    Một điều gần như đã in sâu vào tác phong của người lính cụ Hồ như chú đó là đúng giờ. Chú luôn nhớ bài học đúng giờ của Bác, tâm niệm mình tới trễ một phút thì cứ nhân lên với số người đợi chờ mình thì con số lớn bao nhiêu. Có làm việc đúng giờ thể hiện thái độ nghiêm túc với công việc và sự tôn trọng với người khác. Như một lời tâm tình, chú chỉ mong thanh niên học sinh sinh viên bây giờ cố gắng giữ tác phong này, đừng sử dụng giờ cao su. Học Bác đừng cho rằng phải học những điều lớn lao, chỉ cần hành động nhỏ nhưng thiết thực.

    Những năm tháng này chú dành nhiều thời giờ cho việc viết lách. Chú muốn ghi lại những tư liệu quý giá về Bác, để sưu tập chúng thành bài học cho thế hệ trẻ ngày nay. Đến nay, chú đã có gần 1000 trang in về Bác Hồ. Những tập sách quý được xuất bản như: Bác Hồ với bạn bè quốc tế, Bác Hồ với văn nghệ, Theo bước chân người, Thư riêng của bác Hồ,… Những điều chú ấp ủ bấy lâu nay dần dần đã được hiện thực hóa. Nơi con người bình dị này quả là có một sức mạnh tỏa sáng phi thường.

    Cả cuộc đời chú Ngọc, niềm tự hào đặc biệt có lẽ là việc học được Bác Hồ niềm hăng say, tự học để trau dồi kiến thức cho bản thân. Khi ở Nga, ngoài việc học chính là chuyên ngành hóa theo sự phân công của nhà nước, buổi tối chú Ngọc còn cắp sách đến trường đại học Mỹ thuật bằng đam mê riêng. Nhìn quanh ngôi nhà của chú tôi đặc biệt chú ý đến những bức tranh treo tường, cây đàn Piano ở góc phòng. Tất cả đều là niềm vui khi rãnh rỗi, khi đã về hưu an nhàn. Tôi hỏi: Nghệ sĩ thế này thì khi chú học hóa – một ngành đặc thù về tự nhiên thì chú có thấy nó bị bó buộc không?. Chú bảo: “Không, ngược lại, với chú thì học Hóa là cách để mình hoàn thiện bản thân. Đất nước đang cần ngành Hóa thì mình phải học tốt để phục vụ chứ”. Cách nghĩ tuyệt vời này đúng là tấm gương cho bản thân tôi khi chính mình chỉ gắng theo đuổi những thứ gọi là đam mê, chưa biết học cách đối diện với điểm yếu của mình.

    Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của công việc chú Ngọc còn học thêm về Luật, kinh tế, chính trị cao cấp… chưa bao giờ chú nghĩ mình nên dừng lại việc học. Khi về hưu chú giữ chức chủ tịch hội quốc tế ngữ Esperanto, luôn sẵn sàng dạy quốc tế ngữ cho các bạn trẻ ham học một cách miễn phí. Nói đến quốc tế ngữ, chú khẳng định một niềm tự hào và hy vọng sự phát triển của nó trong tương lai gần. Hiện chú vẫn tham gia công tác đối ngoại nhân dân, làm việc với công việc của một Ủy viên Ban Thường vụ Quỹ hòa bình và phát triển thành phố Hồ Chí Minh. Năm nào chú cũng nhận được Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đó là sự khích lệ to lớn để khi còn đi được, còn làm được là sẽ đi, sẽ làm vì nhân dân như Bác Hồ đã từng làm.

    Điều làm tôi vô cùng khâm phục là khi đã ngoài 40 tuổi chú mới bắt đầu học tiếng Anh và hiện nay chú có thể sử dụng nó phục vụ cho công tác. Noi gương Bác Hồ, chú Ngọc rất chăm học tiếng nước ngoài, coi đó là phương tiện để mở rộng tri thức, để vươn tới những chân trời tri thức mới. Hiện nay chú có thể dùng được các ngôn ngữ như tiếng Nga, tiếng Trung, quốc tế ngữ Esperanto. Chú sợ nhất không phải nghèo khó, không phải cực khổ mà sợ hư cái đầu, không còn cống hiến cho cuộc đời được nữa. Thăm nơi chú lao đông, tôi không khỏi trầm trồ trước hàng trăm bức tranh, hàng ngàn bức ký họa quý giá mà chú đã ngày đêm miệt mài làm việc. Chú đã cho xuất bản 20 đầu sách về nhiều đề tài. Đó là mồ hôi, là nước mắt của những đêm dài sáng tác, là niềm vui sống của con người quen với công việc, không để phí thời gian. Chú quý từng giây từng phút của hiện tại, bởi “thời gian của chú giờ còn ít lắm”.

    Trước khi chia tay, chú Ngọc còn lưu ý với tôi một bài học quan trọng nữa mà Bác Hồ thường nhắc nhở, đó là khi đã tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm thì phải chia sẻ với bạn bè, đồng chí, đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chú tâm sự: “Bây giờ tuổi đã cao, nhưng hàng tháng, trong các buổi sinh hoạt chi bộ, chú vẫn đều đặn báo cáo tri thức thời sự và một số chuyên đề mà chi bộ quan tâm. Việc làm này đã thành một nề nếp quen thuộc, được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt”.

    “Sẽ vẫn làm việc cho đến phút cuối cuộc đời” Người Đảng viên 56 năm tuổi Đảng này cả cuộc đời đã như con ong chăm chỉ góp cho đời những giọt mật quý, như con chim cất lên tiếng hát trong trẻo buổi bình minh, như dòng thơ góp cho đời những ý thật tươi. Nhìn lại bản thân, tôi thấy mình sao vẫn còn nhiều điểm yếu kém. Tự thấy hổ thẹn với bản thân khi tiếp xúc với chú và tự hứa ngày hôm nay sẽ học hành chăm chỉ, cảm ơn chú với bài học này.

  • VẼ NIỀM VUI CHO ĐỜI, CHO NGƯỜI

    VẼ NIỀM VUI CHO ĐỜI, CHO NGƯỜI

    Có những ấn tượng thật đẹp được gởi lại ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, anh Trương Văn Hùng là một trường hợp như vậy khi anh đón tôi bằng một nụ cười thân thiện, rạng rỡ, xua cái oi bức của Sài Gòn những ngày đầu tháng năm nóng nực.

    Là cảnh sát khu vực với mật độ công việc dày đặc, tuy vậy anh vẫn dành cho tôi một khoảng thời gian nhỏ nhưng đủ trọn vẹn để kể về chuyện đời, chuyện người, những vui buồn, được mất trong cuộc sống. Anh gia nhập vào hàng ngũ quân đội từ năm 17 tuổi và tiếp tục đóng góp sức lực cho quê hương đến tận bây giờ. Anh tâm sự, có lẽ anh quá may mắn khi trưởng thành trong hoàn cảnh đất nước không còn tiếng súng, non sông thu về một dãy, Nam Bắc sum họp một nhà. Công việc của thế hệ tiếp theo – những người hậu bối như anh là nối gót cha ông, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã ngày ngày ăn sâu vào máu thịt của người con gốc Sài Gòn này, trở thành kim chỉ nam cho tư duy và vận dụng những tư tưởng ấy vào đời sống thực tiễn một cách ý nghĩa và giá trị nhất.

    Có lẽ thời gian gặp gỡ của chúng tôi không đủ nhiều để tỏ tường về mọi ngõ ngách trong cuộc sống nhưng cũng đủ để tôi hiểu thêm một tính cách mới, một con người mang trọng trách ngày đêm giữ vững an ninh địa bàn là cần thế nào. Không khoa trương, phóng đại mà thân mật, chân tình và vui tính là những gì mà tôi cảm nhận được từ anh. Chính những cử chỉ này đã xóa tan khoảng cách mà tôi tự đặt ra lúc chúng tôi chưa gặp nhau.

    Anh là mẫu gương điển hình cho câu nói “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, vận dụng tốt những giá trị ấy vào đời sống, xây dựng tác phong, kỷ luật kỷ cương chặt chẽ, quan hệ tương thân, tương ái giúp đỡ đồng đội vượt mọi khó khăn. Những anh em cấp dưới khi gặp vấn đề về mọi mặt, trong khả năng có thể là anh giúp hết mình, không cần suy nghĩ tính toán. Chính những hành động này của anh đã làm cho các đồng nghiệp cấp trên và cấp dưới ngày càng tin yêu, tôn trọng.

    Không những vậy, anh cùng các đồng chí, đồng đội nghiêm túc xây dựng đóng góp kỷ luật cơ quan, phê và tự phê bình, xây dựng đơn vị ngày càng phát triển vững mạnh, là một trong những lá cờ đầu trong mọi công tác, phong trào địa phương.

    Xây dựng bản thân có lối sống giản dị, gần gũi quần chúng. Đây là một trong những điều ấn tượng nhất của anh, không chỉ riêng tôi mà nhiều người dân địa phương cũng công nhận như vậy. Chính anh là người cắt đi khoảng cách vô hình trong mối quan hệ giữa “công an” và “quần chúng” mà nhiều người thường dè dặt. Vì vậy mà rất nhiều người đến tìm anh với mong muốn nhờ anh “gỡ rối” nhiều khía cạnh trong cuộc sống, và hiển nhiên anh trở thành “chuyên gia tâm lí” bất đắc dĩ nhưng cũng rất thành công. Có những người khi đến gặp anh, họ tâm sự cả những chuyện trong gia đình, những chuyện mà theo như người dân đó nói là “không thể tâm sự với ai khác ngoài anh”. Những chuyện tình cảm và tranh chấp tài sản cũng được anh hạ hồi phân giải và đưa ra những cách giải quyết cực kỳ thuyết phục, không mất lòng ai cũng không làm họ cảm thấy bị tổn thương.

    Ngoài những chuyện gia đình, chuyện tình cảm cá nhân, hay chuyện tranh chấp tài sản thì anh còn tư vấn cả pháp luật (những hiểu biết trong phạm vi của anh). Nhiều người khi đến đây, họ còn nói vui rằng:Tui nói thiệt nha, đến đây gặp anh vì thấy anh gần gũi, dễ chịu, nhờ tư vấn chuyện gì cũng thấy nhẹ lòng, mà đặc biệt không tốn một đồng xu nào”. Nhưng nếu có những nội dung vượt ngoài sự quản lí của anh và cơ quan thì anh chỉ bảo tận tình nơi tiếp theo mà người dân phải đến để giải quyết vấn đề, theo như lời anh “đã giúp thì giúp tới bến”. Hơn nữa, ngoài sự vui tính, phóng khoáng, không câu nệ thì điểm đặc biệt mà ai cũng ấn tượng nơi anh chính là nụ cười. Anh nói: “Một nụ cười bằng mười than thuốc bổ”, mà cũng có ai tính phí nụ cười đâu mà sợ, do đó anh luôn bắt đầu mỗi câu chuyện bằng một nụ cười, không những làm bản thân thoải mái, mà người đối diện họ cũng cảm thấy nhẹ nhàng, gần gũi, mọi chuyện sẽ được cởi mở chân tình và dễ dàng đồng cảm. Nhiều người đến gặp anh trong tâm thế “tiến thoái lưỡng nan” không biết phải xoay trở hay giải quyết rắc rối ra sao thì anh chính là người dắt họ đi qua những khoảng trống chênh vênh đó.

    Bà Lê Thị Thu (một người dân trong phường) nói đùa: “Ông này vui cũng có ông, mà buồn cũng có ông luôn, ở đâu cũng gặp ông hết, từ đám cưới đến ma chay ông đều tham dự…”. Một câu nói ngắn gọn nhưng cũng quá đủ để chúng ta thấy rằng anh có một vị trí khá quan trọng và gần gũi đối với người dân địa phương, luôn sát cánh cùng họ để chung vui hỷ sự, chia buồn tang sự. Sự hiện diện của anh trong những hoàn cảnh như vậy đã tạo thành lớp keo dính chặt tình cảm quân dân như cá với nước, dù hôm nay và ngày mai vẫn vậy.

    Nắm bắt tâm lý để mở đầu câu chuyện và tùy tình huống để giải quyết khó khăn là điểm nổi bật tiếp theo của anh, mà theo lời anh đó là cả một quá trình quan sát và rèn luyện, vì thực tế cuộc sống muôn màu muôn sắc không để áp dụng những phương pháp máy móc, khô khan. Dù biết rằng nói thẳng sẽ là cách hay nhất để giải quyết vấn đề nhưng trong nhiều trường hợp chúng ta cần có những góp ý riêng tư để tạo cảm giác dễ chịu. Theo lời anh: Đôi khi giải quyết nhiều chuyện gây gỗ của lối xóm, đứng ở cương vị vừa là láng giềng, vừa là công an khu vực nên anh kết hợp cả hai, lúc mềm mỏng nhưng lúc cũng cần sự cứng rắn”. Hay như khi đi xử phạt những người buôn bán lấn chiếm lòng lề đường thì anh cũng hạn chế sáng sớm vì rất ngại, họ cũng vì miếng cơm manh áo, còn anh thì phải làm theo trách nhiệm chứ sao giờ. Không những vậy, anh còn cho biết thêm: “Chọn thời điểm thích hợp để nói chuyện là chính mình đã tạo thành công cho cuộc nói chuyện hơn 50%”. Do đó những mối quan hệ của anh, từ gia đình đến đồng nghiệp, từ cơ quan ra xã hội đều thành công, không quá câu nệ chuyện phép tắc xưng hô, nhờ lẽ đó anh rất được mọi người yên mến vì sự thân thiện, gần gũi nhưng chuẩn mực, mềm dẻo: “Không phân biệt cấp bậc, tôn ti một cách cứng nhắc, khô khan, nhưng cũng không quá lỏng lẻo mà “vừa cương vừa nhu”, tạo ấn tượng rất tốt với các đồng nghiệp”, anh tiếp lời.

    Anh luôn tiên phong và vận động mỗi cá nhân, đồng nghiệp, quần chúng nhân dân chấp hành tốt pháp luật và các quy ước, phong trào của địa phương, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Làm cho mọi người hiểu được vấn đề và cách thực hiện cũng như giải quyết khó khăn; phát động nhiều phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động nhân dân vào Ban điều hành tổ dân phố để giữ vững an ninh và trật tự địa bàn.

    Thời gian qua, anh cùng đơn vị và cô Lê Thị Ngà xây dựng nhóm Kim Đồng ở khu vực chợ Nancy, nhiệm vụ là giúp những em hư hỏng, lạc bước quay về với gia đình, học nghề để làm lại cuộc đời sau những vấp ngã đau thương tuổi trẻ. Mô hình này rất được các phương tiện thông tin đại chúng quan tâm. Những em này đại đa số là con em của những người buôn bán ma túy, đi tù, không ai quan tâm, chăm sóc vì vậy đơn vị tập hợp và giới thiệu cho các em đi học, đi làm.

    Hơn nữa, những thủ tục hành chính của đơn vị đã được cải thiện rất nhiều theo các mô hình tổ chức hiện nay. Nhiều người dân rất phiền hà khi chờ đợi giải quyết, như lời anh: “Nhiều người rất bận nhưng cũng phải chờ cả hai tiếng ở những nơi giải quyết thủ tục hành chính nên nếu người dân cần gấp thì chạy đến nhà chứng giúp, tranh thủ làm cho họ. Còn nếu họ có thời gian, để ngày hôm sau mới chứng thì sáng ngày hôm sau mình sẽ gọi điện nhắc người dân”.

    Trong suốt những năm tháng đảm đương vị trí công an khu vực, nhiều lần anh đã đối mặt với khó khăn, hiểm nguy. Ấn tượng nhất là những tội phạm khu vực, khi bị phong tỏa để bắt giữ thì người đó nói: “Mấy ông phá cửa vào là tui phóng hỏa đốt nhà đó nha, phải cho tôi gặp chú Hùng, cảnh sát khu vực ngay bây giờ”. “Qua đó để chúng ta biết rằng cách hành động, cách đối nhân xử thế của mình rất quan trọng, một khi họ đã tin tưởng mình thì mình phải mang đến niềm tin cho họ”, anh nói. Đó cũng là điều anh học được từ Bác Hồ “chúng ta phải khôn khéo với địch, có như vậy mới chiến thắng”.

    Cuộc trao đổi chắc chắn sẽ còn dài nữa nếu không có những cuộc hẹn sáng nay của anh với người dân (minh chứng cho sự bận rộn và niềm tin mà người dân dành cho anh). Nhưng thiết nghĩ, những trao đổi vừa rồi đã khắc họa rất rõ nét chân dung một quân nhân luôn học tập và vận dụng rất tốt tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào đời sống thực tiễn, cẩn trọng giải quyết từng vấn đề và ứng phó mọi tình huống rất sáng tạo, tinh tế, nhạy bén nhưng không kém phần tâm lí, nhẹ nhàng. Đặc biệt, anh không quên nở nụ cười khi bắt đầu một câu chuyện hay giải quyết một vấn đề, đó cũng là một trong những châm ngôn sống của anh “Cười để trẻ, khỏe, động lực để ta bước tiếp và là loại keo dán chặt nhất những mối quan hệ cũ, bắt đầu nối kết những mối quan hệ mới”.

  • BÔNG HOA TRONG VƯỜN BÁC

    BÔNG HOA TRONG VƯỜN BÁC

    Tôi tìm đến nhà chị Đặng Thị Huỳnh Như khi ánh chiều vừa buông lững lờ trong những con hẻm đường Phạm Viết Chánh, quận Bình Thạnh. Ánh nắng chiều hôm ấy dịu ngọt như nụ cười đôn hậu của chị. Những câu chuyện đời, câu chuyện nghề cứ thế tiếp diễn trong sự đầm ấm của căn nhà nhỏ đầy tiếng cười.

    Chị, ngày ấy là một sinh viên vừa tốt nghiệp được nhận vào làm kế toán trường mầm non Hoa Lan, phường Cầu Kho, quận 1. Nhìn lại quãng đường với 20 năm gắn bó ở vai trò là một kế toán, chị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao từ chế độ, chính sách, tiền lương cho nhân viên, giáo viên nhà trường. Ngoài hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, chị còn giúp đỡ các đồng ngiệp trong và ngoài trường. Được gọi là người giữ “bát gạo” trong nhà trường, chị luôn cố gắng tham mưu để tìm cách giải quyết làm sao để cuộc sống của đồng nghiệp không gặp nhiều khó khăn nên chị luôn nhận được sự tin yêu của mọi người. Với bản chất thẳng thắn luôn chân thành góp ý để mọi người sống tốt hơn, hoàn thiện bản thân mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan. Với tính cách từ tốn và điềm đạm, chị luôn biết kiềm chế cảm xúc bản thân, không để cảm xúc tiêu cực chế ngự bản thân. Chính vì vậy chị luôn suy xét thấu đáo mọi sự việc xung quanh, bình tĩnh tìm ra giải pháp ứng xử hợp lý, hữu hiệu nhất những vấn đề gặp phải. Đó là kết quả của sự tập luyện, học hỏi và luôn cố gắng hoàn thiện bản thân. Chị cười hiền “Những lúc nóng giận quá chị uống cốc nước vào như một nhắc nhở cho bản thân mình, một câu nhịn chín câu lành. Đừng làm tổn thương người khác khi mình nóng giận.” Vì chị luôn tôn trọng tập thể, luôn yêu thương đồng nghiệp mình, cố gắng tạo môi trường đoàn kết, thân thiện trong môi trường làm việc.

    Chia sẻ về nghề nghiệp, chị tâm sự ngoài sự tỉ mỉ, cẩn thận bởi tính chất công việc đòi hỏi sự chính xác đến từng con số thì trung thực là một đức tính cần được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời răn: “con người có bốn đức là cần, kiệm, liêm, chính, thiếu một đức là không thành người”. Vì vậy chị luôn công khai thu chi một cách rõ ràng. Với kinh nghiệm 20 năm trong nghề nhưng không vì thế mà chị ỷ lại, tự mãn vào kinh nghiệm của mình. Với chị, học hỏi là một việc làm xuyên suốt. Chị luôn có tinh thần học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nỗ lực tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao vốn sống vốn hiểu biết của mình qua các lớp học ngoại khóa về tâm lí để mình sống tốt hơn, để biết kìm chế bản thân mình và cũng để nuôi dạy tốt hơn hai cậu con trai.

    Ngọn lửa đam mê là điều tôi thấy rõ nhất ở công việc kế toán trường mầm non của chị. Bởi được làm việc là một loại hạnh phúc. Dù mệt mỏi, dù lo lắng nhưng thường trực nhất trong cảm xúc vẫn chính là niềm vui. Nó làm chị thấy việc làm của mình trở nên rất có ý nghĩa, nó thôi thúc, lôi cuốn vào guồng quay của bộ máy công việc. Với tình yêu nghề đó, chị luôn tạo ra niềm cảm hứng để giải quyết hiệu quả với những con số mà không hề nhàm chán. Nó như một ngọn lửa rực cháy bừng trong tim và cảm hứng từ những con số nhiên liệu để ngọn lửa ấy đam mê kế toán cháy mãi từng ngày. Sự hứng khởi, ngọn lửa niềm đam mê ấy được truyền hơi ấm sang cho đồng nghiệp trong từng giờ, từng ngày. Thấy chị hạnh phúc khi nhắc đến công việc của mình, tôi cũng thấy niềm vui đó hình như cũng đang len lỏi trong tim tôi, ngọn lửa đam mê ấy cũng đang truyền vào trong tôi.

    Bất kì ở vai trò nào chị cũng xứng đáng là bông hoa trong vườn Bác, cũng luôn là một tấm gương sáng để mọi người học hỏi. Ở vai trò là một Đảng viên thuộc Đảng bộ phường Cầu Kho, trong những năm vừa qua chị cùng gia đình gương mẫu chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, luôn gương mẫu đi đầu trong công tác cũng như tham gia các phong trào tại nhà trường và khu phố. Không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, sống trung thực, lành mạnh. Ngoài ra chị còn tích cực tham gia các hội thi do phường Cầu Kho tổ chức như Hội thi tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh… Là một Đảng viên đã sinh hoạt được khoảng 12 năm, có cơ hội được tiếp xúc nhiều chuyên đề, được nghiên cứu tài liệu về tấm gương về Bác nên chị thấm nhuần tư tưởng, đạo đức của Bác. Với chị, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ để nói mà để thực hiện, lời dạy của Bác là cách sống, cách làm việc của chị. Đó không phải là chuyện một sớm, một chiều hay ngày một ngày hai mà là quá trình rèn luyện suốt cả cuộc đời. Muốn có đạo đức trong sáng thì phải kiên trì tu dưỡng, rèn luyện suốt đời như Bác đã từng khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Chị tâm sự “Ở vị trí là một Đảng viên, bản thân mình phải gương mẫu như thế mới tạo được uy tín trong quần chúng nhân dân. Bác Hồ dạy, nhân dân là gốc, mọi việc làm đều phải phục vụ tốt cho nhân dân của mình.”

    Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt”. Bác cũng đã từng có những nhận định về tiêu chí gia đình tốt trong thời đại hiện nay, nó không chỉ dừng lại ở việc nuôi con khỏe, dạy con ngoan mà một gia đình tốt là một gia đình mà trong đó các thành viên trong gia đình phải biết yêu thương, tôn trọng lẫn nhau. Đó là những giá trị đạo đức hết sức cao đẹp trong xã hội hiện đại, là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nhận thức được điều đó, chị luôn để gia đình mình là nơi nuôi dưỡng và là trường học nhân cách cho các con của mình. Ở vai trò là một người mẹ của xã hội hiện đại chị định hướng nhân cách cho con mình phù hợp theo từng giai đoạn tâm lí. Vũ Đức Hiếu được mẹ dạy các kĩ năng sống, dạy con phải lấy đạo đức làm trọng. Khi được hỏi về mẹ, em tư hào “Mẹ là số 1, mẹ luôn lo lắng cho em, mẹ còn là một người bạn chia sẻ tâm tư tình cảm. E sẽ cố gắng là đoàn viên tốt, phấn đấu trở thành Đảng viên tốt như mẹ”. Bên cạnh trưởng thành về mặt đạo đức, anh chàng cũng làm cho mẹ tự hào về kết quả học của mình khi trong những năm vừa qua, Hiếu luôn là học sinh xuất sắc.

    Ý thức được vai trò của mình trong gia đình và biết tự bảo vệ hạnh phúc của chính mình đồng thời cân bằng công việc ở cơ quan và công việc gia đình để hoàn thiện gia đình mình. Chị như người “giữ lửa”, “truyền lửa” hâm nóng bầu không khí gia đình. Trong gia đình nhỏ ấy lúc nào cũng rộn rã tiếng cười, lúc nào cũng là hình ảnh của sự ấm áp, tình yêu thương. Chính điều đó làm cho chân dung của chị hiện lên thật đẹp, chị – người phụ nữ truyền thống dịu dàng, hiền thục với đức tính“Công, dung, ngôn, hạnh”. Chị – người phụ nữ hiện đại đem công sức của mình phục vụ cho nhân dân, đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Cô xứng đáng với danh hiệu “Phụ nữ hai giỏi” của đơn vị: giỏi việc nước, đảm việc nhà.

    Nụ cười hiền của chị như đóa hoa hướng dương giữa ánh sáng mặt trời, cuộc đời chị cũng là một bông hoa như trong câu nói của chị “Mỗi người hãy là một bông hoa trong cuộc đời, mỗi bông hoa có một vẻ đẹp, một cách tỏa hương khác nhau nhưng chung quy lại đều đang làm đẹp choi đời. Làm đẹp cho đời bằng đạo đức, bằng nhân cách – đó là bông hoa nở mãi chẳng tàn